Tôi sinh ra và lớn lên ở thành phố. Như nhiều bạn bè cùng trang lứa, tôi thích những món ăn vặt đường phố nhiều gia vị, đầy dầu mỡ, màu sắc bỏng bẩy và giá cả thì “học sinh, sinh viên”. Bố mẹ tôi thường hay nhắc nhở tôi tránh xa mấy đồ ăn đó nhưng tôi thường lặng thinh, bỏ ngoài tai. Một sáng mùa đông vừa mở mắt, tôi thấy ngay ngắn trên bàn học của mình một cuốn sách nhỏ kèm lời nhắn của bố: “Dành tặng cô gái nhỏ bướng bỉnh, lắm chiêu của bố. Hãy dành thời gian đọc cuốn sách này con nhé, đừng ôn thi căng thẳng quá!”. Màu vàng nghệ hơi sỉn cũ của bìa sách cùng dòng chữ chân phương “Mùi của kí ức” khiến tôi tò mò. Bất giác, tôi lật mở những dòng chữ đầu tiên…

Tôi sinh năm 1957 và lớn lên ở một làng quê nghèo bên bờ sông Đáy. Thuở những người đầu tiên lập lên làng thì làng được gọi là Tía Hạ. Sau gọi đó là làng Chùa và người làng Chùa được gọi là kẻ Chùa…Gọi là làng Chùa vì hồi đó, làng chỉ vài chục nóc nhà nhưng lại có một ngôi chùa lớn đầu làng ven chân đê sông Đáy…Trong suốt tuổi thơ, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi qua cuộc đời những đứa trẻ thôn quê như tôi - ngọn gió của đói rét. Lúc nào chúng tôi cũng đói, lúc nào chúng tôi cũng rét như ông bà, cha mẹ chúng tôi. Lúc nào chúng tôi cũng sống trong ngôi nhà ẩm thấp, mù tối và tiếng chó sủa suốt đêm. Chúng tôi ăn đủ thứ tìm thấy để lớn lên như rau dại, quả dại, côn trùng,… Nhưng trùm phủ lên tuổi thơ của chúng tôi là tình thương yêu vô tận của bà, của mẹ, của cô, của dì, của chị và của hàng xóm láng giềng. Những người đàn bà trong làng đã tìm mọi cách để nuôi lũ trẻ của họ lớn lên”… Trong “Lời ngỏ - Xin cúi đầu lạy tạ”, nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã tự giới thiệu rất đỗi mộc mạc về gốc gác, quê quán của mình. Tôi hình dung ra dáng vẻ trầm tư, khoé mắt ngân ngấn xúc động, nụ cười hạnh phúc trên gương mặt nhà văn khi lần lượt nhắc lại Mười tám “Mùi của kí ức”:

Một – Tôi khóc những cánh đồng rau khúc

Hai – Hoa cải rơi không thể cầm lòng

Ba – Bánh đúc riêu cua và bí mật của bà tôi

Bốn – Món ăn thiêng của tháng Bảy

Năm – Sông Đáy ơi chiều nay tôi trở lại…

Sáu – Nhớ cà dầm tương

Bảy – Muối

Tám – Món gỏi độc nhất vô nhị

Chín – Hiện ra từ làn khói lam chiều

Mười – Mâm cỗ ngày thường của cha tôi

Mười một – Trên xứ sở của những cánh rừng rau dại

Mười hai – Những mùa đông đói rét

Mười ba – Món xáo chuối

Mười bốn – Quà của văn hoá

Mười lăm – Trứng

Mười sáu – Canh Việt

Mười bảy – Những món bánh của làng Chùa

Mười tám – Món tráng miệng của làng Chùa

Tôi như bị cuốn vào kí ức của nhà văn, những món ăn, hình ảnh quê hương, bóng dáng cụ ông, cụ bà, đường làng, ngõ xóm, ngôi chùa, cổng chợ… cứ ẩn hiện trước mắt. Những câu văn chắt ra từ kí ức dịu ngọt, ấm áp của nhà văn Nguyễn Quang Thiều khiến tôi nhớ bà nội tôi da diết. “Hàng năm, khi mùa hạ bắt đầu thì cũng là lúc bà tôi bắt đầu chuẩn bị muối cà, làm tương. Lúc đó, tương cũ vẫn còn trong chum và cà cũ vẫn còn trong vại. Nhưng vại để muối cà và chum để làm tương phải được cọ rửa vô cùng kỹ lưỡng cho vụ cà muối mới và vụ tương mới. Chum vại được cọ rửa rồi ngâm nước với lá chuối tươi. Lá chuối sẽ làm sạch mùi tương, mùi cà muối cũ…”. (Chương sáu – Nhớ cà dầm tương). Bất giác, tôi mường tượng ra bóng lưng bà nội tôi mỗi khi bà mở nắp chum tương. Bà khẽ khàng đong từng muôi tương vào chai thuỷ tinh, nút lá chuối cẩn thận, vừa làm vừa càm ràm mấy câu, cả nhà nghe đến thuộc lòng: “Chả biết khi tao về với ông chúng mày rồi thì chúng mày lấy tương đâu mà ăn?”. Tôi hiểu vì sao mỗi bữa cơm dù thịt cá ê hề, bà tôi vẫn phải có bằng được một chén tương nâu suộm, vài quả cà muối quắt queo, giản dị. Đọc “Mùi của kí ức” tôi được “du lịch bằng trí tưởng tưởng” vượt không gian, thời gian về với làng Chùa năm ấy, về thăm cánh đồng hoa cải vàng rực ngày cuối đông, ngồi hít hà hương bánh đúc riêu cua lụp xụp ở chợ Tía, thưởng thức món ốc nhồi nấu chuối trong cỗ biếu rằm tháng Bảy,… Những dòng tản văn của tác giả Nguyễn Quang Thiều như một sợi dây kết nối một đứa trẻ mười lăm, mười sáu tuổi chốn phồn hoa với quê hương thuở còn lầm lũi, cơ cực. Điều ấn tượng nhất của “Mùi của kí ức” đấy chính là “mùi”, là hương vị của quê hương, thứ hương vị được tạo nên bởi tình yêu, sự gắn bó máu thịt với gia đình, làng xóm của tác giả. Ông viết mà như không viết, viết mà như đang trò chuyện với quá khứ vất vả, lam lũ, nhưng bình yên và ắp đầy kỉ niệm của mình, viết mà như đang dặn dò con cháu về bản sắc, nguồn cội. Chắc chắn rằng, phải yêu nhớ và gắn bó với gia đình, với làng Chùa của mình tha thiết, nhà văn Nguyễn Quang Thiều mới viết được những dòng tản văn đầy màu sắc, hình ảnh, hương vị đến thế: “Thường thì vào cuối tháng Mười Một âm lịch, rau khúc đã bắt đầu nở lác đác trên cánh đồng. Nhưng phải sang tháng Giêng, tháng Hai rau khúc mới mở rộ. Đó là khoảng thời gian những làn mưa xuân ấm áp thường trở về cánh đồng lúc gần sáng. Hồi còn nhỏ, trong những đêm gần sáng như thế, không hiểu lí do gì mà tôi thường thức giấc. Bà nội kéo chiếc chăn chiên nhiều lỗ thủng ủ kín tôi và nói “Mưa ấm thế này, khúc lại nở trắng đồng”. Những lúc như thế, tôi nín thở dỏng tai nghe mưa nhưng chỉ thấy tiếng côn trùng rỉ rả. Và tôi lại nói với bà: “Cháu chẳng nghe thấy mưa gì cả”. Bà tôi khẽ khàng: “Đang mưa đầy trời đấy”… Khi mỗi mùa rau khúc nở một màu trắng mơ hồ như sương đọng trên những cánh đồng thì trong tôi lại vang lên một câu hỏi. Câu hỏi năm nào cũng vang lên trong tôi và kéo dài mấy chục năm rồi. Một câu hỏi giản đơn đến mức hình như chẳng có ai một lần đặt câu hỏi đó trong cuộc đời mình: “Làm thế nào mà những cây rau khúc bé bỏng lại có thể giữ được sự sống của chúng trong đất suốt một năm trời qua mưa bão, nắng gió và đến một ngày lại thức dậy tràn đầy sự sống như thế?”. Những hạt rau khúc nhỏ li ti như những hạt bụi. Chúng vùi sâu trong đất với mưa nắng, ngập lụt và bao biến động mà không bị giết chết. Ai cho những hạt rau khúc bé bỏng kia sức mạnh phi thường và sự chịu đựng bền bỉ đến như vậy? Có những câu hỏi về những điều thật nhỏ bé lại chứa đựng cả một bí ẩn lớn của vũ trụ. Và những thứ nhỏ bé ấy lại là “biển” chỉ đường cho con người trong đời sống hầu như mù mờ và vô định này.(Một – Tôi khóc những cánh đồng rau khúc) …

Xen giữa những dòng tản văn lắng đọng là những vần thơ như nhịp thở của thời gian, của đời người:

Sông Đáy chảy vào đời tôi

Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả

Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm

Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt

Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc

Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn…”

(Năm – Sông Đáy ơi chiều nay tôi trở lại…)

Càng đọc tôi càng thấm thía, hoá ra sự hấp dẫn của cuốn sách không chỉ đến từ “mùi vị”, nó đến từ chiều sâu văn hoá, phong tục của quê hương. Tôi nhận ra rằng, tác giả yêu quê, nhớ quê đến vậy bởi nơi ấy có ắp đầy tình cảm gia đình, ông bà, cha mẹ, anh chị em hoà thuận, lễ nghĩa; họ hàng, làng xóm tối lửa tắt đèn; có đám bạn chăn trâu cắt cỏ hồn nhiên, chân thành,… Tôi chưa đến làng Chùa bao giờ, nhưng tôi hình dung ra một ngôi làng cổ kính ven sông, cổng làng rêu phong, tình người ấm áp… Tôi nhớ làng HL quê nội tôi, làng NĐ quê ngoại tôi. Tôi tin rằng, ai cũng có một “làng Chùa” đậm “Mùi của kí ức” như Nguyễn Quang Thiều khi nhớ về quê hương của mình.

Thực hiện: Hoàng Khánh Hà